Về kim ngạch, 3 thị trường có kim ngạch xuất khẩu hạt điều lớn nhất trong nửa đầu năm 2024 lần lượt là Hoa Kỳ với 505 triệu USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước; Trung Quốc với 362 triệu USD, tăng 39% so với cùng kỳ năm trước và Hà Lan với 168 triệu USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước. Tổng giá trị hạt điều xuất khẩu sang ba thị trường này đạt 1,03 tỷ USD, chiếm 53% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam.
Các thị trường có kim ngạch xuất khẩu hạt điều lớn khác còn có Đức với 63 triệu USD, tăng 33% so với cùng kỳ năm trước; UAE với 58 triệu USD, tăng 38% so với cùng kỳ năm trước; Anh với 48 triệu USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước; Australia với 45 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước; Canada với 43 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước; Ả rập Xê út với 39 triệu USD, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước…
Nửa đầu năm 2024, 7 thị trường xuất khẩu hạt điều của Việt Nam có đà giảm về kim ngạch và 26 thị trường tăng so với cùng kỳ năm trước. Litva có mức tăng trưởng cao nhất với tăng 144% so với cùng kỳ năm trước, ngược lại Pakistan có mức giảm sâu nhất với giảm 81% so với cùng kỳ năm trước.
Về giá, theo số liệu của Tổng cục Hải quan, hạt điều xuất khẩu sang thị trường Hồng Kông (Trung Quốc) có mức giá cao nhất với 7.986 USD/tấn, đứng sau là Israel với 7.007 USD/tấn. Đây là hai trong số 33 thị trường xuất khẩu hạt điều của Việt Nam có mức giá đạt trên 7.000 USD/tấn.
Trong nhóm 6.000 USD, Việt Nam xuất khẩu hạt điều sang Đài Loan (Trung Quốc) có giá trung bình đạt 6.892 USD/tấn, Ai Cập với 6.843 USD/tấn, Kuwait với 6.255 USD/tấn, Iraq với 6.203 USD/tấn, Ấn Độ đạt 6.069 USD/tấn, Pakistan với 6.063 USD/tấn.
Italy là thị trường có mức giá hạt điều xuất khẩu trung bình thấp nhất với 3.673 USD/tấn, tiếp đến là Philippines với 4.314 USD/tấn, New Zealand với 4.823 USD/tấn…