Tuy nhiên, ngành tôm vẫn chịu tác động từ nhiều yếu tố như chiến tranh, biến động kinh tế và chính trị toàn cầu, xu hướng tiêu dùng tiết kiệm, và giá cả tăng. Trên thị trường EU, tôm Việt Nam phải cạnh tranh mạnh mẽ với tôm Ecuador, vốn có giá rẻ hơn, đáp ứng tiêu chuẩn ASC và chi phí vận chuyển thấp hơn. Ecuador hiện vẫn là nguồn cung tôm lớn nhất cho EU.
Thị trường EU yêu cầu tôm nuôi đạt chuẩn an toàn, với giải pháp giảm phát thải trong nuôi trồng và chế biến, truy xuất nguồn gốc chi tiết, và phúc lợi động vật. Dự báo nhu cầu nhập khẩu tôm của EU từ tháng 7 đến cuối năm sẽ tiếp tục tăng do kinh tế EU có xu hướng ổn định, giá tiêu dùng ổn định và lạm phát giảm. Trong khi các sản phẩm tôm truyền thống của Việt Nam phải đối mặt với áp lực cạnh tranh từ các nguồn cung khác, các sản phẩm giá trị gia tăng dự kiến sẽ tăng trưởng tốt hơn nhờ giảm tồn kho.
Trong cơ cấu xuất khẩu tôm sang EU trong hai quý đầu năm 2024, tôm chân trắng chiếm tỷ trọng lớn nhất với 80,5%, tôm sú chiếm 12,4%, phần còn lại là các loại tôm khác. Trong nhóm tôm chân trắng và tôm sú xuất sang thị trường này, tôm sú chế biến (HS 16) ghi nhận giảm, trong khi các sản phẩm tôm chân trắng và tôm sú còn lại đều tăng.
Các doanh nghiệp xuất khẩu tôm lớn sang EU bao gồm Minh Phú – Hậu Giang, Nha Trang Seafoods – F17, và Thông Thuận. Trong quý II năm 2024, giá trung bình xuất khẩu tôm chân trắng sang EU dao động từ 7,2-7,4 USD/kg, trong khi giá tôm sú dao động từ 8,6-10,3 USD/kg. So với quý đầu năm và cùng kỳ năm ngoái, giá xuất khẩu trung bình của cả tôm chân trắng và tôm sú đều có xu hướng tăng.
Về nhu cầu trên thị trường tôm EU, ở Tây Bắc Âu nhu cầu đối với các sản phẩm giá trị gia tăng tiện lợi hơn đang tăng trong khi Nam Âu khá nhạy cảm về giá nên có nhu cầu cao hơn đối với các sản phẩm tôm chân trắng có giá phải chăng.